Tọa lạc trên diện tích rộng lớn 184.381,6 m2, nơi đây bao gồm đền Bà Triệu, lăng mộ Bà Triệu, đình Phú Điền, mộ ba ông Tướng họ Lý, miếu Bàn Thề, đền Đệ Tứ. Đây là công trình văn hóa, lịch sử xây dựng để tưởng nhớ công lao to lớn của nữ tướng Triệu Thị Trinh (còn gọi là Bà Triệu). Theo quy hoạch, Lăng tháp được xây trên đỉnh núi Tùng là mảnh đất thiêng nơi nữ anh hùng Triệu Thị Trinh ngã xuống khi chiến đấu với quân xâm lược. Đền thờ bà nằm đối diện khu Lăng tháp về hướng đông bắc, dưới chân núi Gai. Đây là ngôi đền được xây dựng theo kiến trúc truyền thống vùng đồng bằng Bắc Trung Bộ với hệ thống cổng ngoại, cổng nội, hồ nước, bình phong, tả hữu mạc, tiền đường, trung đường và hậu cung (nơi thờ Bà Triệu).
Khu mộ ba ông tướng họ Lý(3 anh em theo Bà Triệu lãnh đạo khởi nghĩa) nằm dưới chân núi Tùng. Khu mộ nằm dưới các tán cây cổ thụ tỏa rợp bóng mát. Dưới chân núi có giếng nước nhỏ tự nhiên, mạch nước chảy từ trong núi nên giếng quanh năm không cạn. Nơi đây có bi ký được nhân dân làng Phú Điền dựng năm Mậu Tý (1928) ca ngợi công đức Bà Triệu.
Miếu Bàn thề cách lăng mộ Bà Triệu và khu mộ Ba ông tướng họ Lý khoảng 200m về phía tây bắc. Tương truyền đây là nơi ba anh em họ Lý đã tổ chức ăn thề trước khi gia nhập nghĩa quân Bà Triệu đánh đuổi giặc Ngô.
Đình làng Phú Điền cách đền Bà Triệu khoảng 500m về hướng Tây Bắc, hiện nay là một trong những ngôi đình có giá trị văn hóa, lịch sử, kiến trúc đặc biệt nhất Xứ Thanh. Đình được khởi dựng từ thế kỷ XVII, hậu cung của đình là nơi thờ Bà Triệu (Thần hoàng làng của làng cổ Phú Điền). Đến thời nhà Nguyễn (thế kỷ XVIIII-XIX) đình được trùng tu, tu bổ nhiều lần. Lần trùng tu tôn tạo gần đây nhất là năm 2005. Nét đặc sắc của ngôi đình là kiến trúc chạm khắc tinh xảo với nhiều đề tài khác nhau. Đến tham quan nơi đây, du khách sẽ không khỏi thán phục đôi bàn tay tài hoa của người thợ thủ công xưa.
Đền Đệ Tứ cách Đình Phú Điền khoảng 0,8 km về hướng tây bắc. Đền thờ vị thần Linh Quang, tương truyền là vị thần được thiên đình cử xuống để cai quản vùng đất và người dân vùng đất Bồ Điền. Tương truyền, đây là nơi Bà Triệu lập đàn cầu đảo, yết cáo thần linh trước khi phất cờ khởi nghĩa.
Khu di tích Bà Triệu không chỉ là nơi ghi dấu ấn lịch sử, văn hóa mà còn lưu giữ nhiều hiện vật quý hiếm, một kho tàng các sự tích huyền thoại, ca dao, tục ngữ. Nơi đây cũng còn nhiều cổ vật gìn giữ nguyên bản như 10 cuốn thần phả viết bằng chữ Hán; 65 đạo sắc phong qua các triều đại phong kiến Việt Nam; quạt ngà; lược đồi mồi; trâm ngà; long cung sơn son thếp vàng; tượng Bà Triệu bằng đồng…
Lễ hội Bà Triệu được tổ chức vào dịp tháng hai âm lịch hàng năm (chính lễ là từ ngày 19 đến ngày 24). Đây là một trong những lễ hội có quy mô lớn nhất của tỉnh Thanh Hóa, thu hút nhiều du khách cả nước về tham quan, hành lễ. Ước tính hàng năm vào dịp lễ hội có khoảng gần 8.000 người tham dự. Lễ hội có nội dung phong phú và mang những đặc trưng riêng của văn hóa truyền thống địa phương, như: Lễ mộc dục, lễ giỗ, lễ trình, lễ rước kiệu, lễ tạ, tế cung đình, tế nữ quan…trong đó lễ rước kiệu là nội dung đặc biệt nhất. Các thanh niên được làng tuyển chọn kỹ lưỡng để rước kiệu. Chủ tế đi dưới gầm kiệu Bà, kiệu vừa đi vừa quay đảo, có lúc như gặp trận cuồng phong, nhưng các đồ tế khí trên kiệu không hề suy chuyển. Phần hội, được tổ chức các trò chơi, trò diễn dân gian để phục vụ nhân dân và du khách tham quan, tiêu biểu như: Nấu cơm thi, đánh bài điếm, đánh cờ người…đặc biệt là trò Nhà Mạc, trò Hội Trận.
Lễ hội Bà Triệu là hoạt động văn hóa, tâm linh quý giá, phản ánh sức mạnh tinh thần, lòng tự hào dân tộc, tôn vinh khí phách anh hùng và sự biết ơn của đất nước với anh hùng Bà Triệu, người phụ nữ đầu tiên được nhà nước phong kiến phong Thần.